Tác dụng và ứng dụng cây Càng cua trong đời sống

Trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia phát triển và đang phát triển, cây dược liệu đã được khai thác làm thuốc để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho người dân, chúng được sử dụng như thực phẩm hàng ngày hoặc được chiết xuất thành hỗn hợp có chứa các chất có dược tính để làm thuốc. Từ xa xưa, con người đã biết dùng các loài thực vật để điều trị các bệnh khác nhau, các nhà y học cổ truyền thường sử dụng thực vật đơn lẻ hoặc phối trộn các công thức nhất định để điều trị bệnh. Ngày nay, việc sử dụng thực vật có dược tính được phát triển như cách chăm sóc sức khỏe hàng ngày và như thuốc để chống lại bệnh tật. Nhiều thực vật được đưa vào danh sách hệ thống dược liệu bản địa của các nước Châu Á, Châu Mỹ và Châu Phi, và được sử dụng để điều trị bệnh. Bên cạnh đó, người ta cũng phát hiện một số loài thực vật cung cấp nhiều các hợp chất dẫn xuất phục vụ cho sự phát triển của các loại thuốc điều trị bệnh ngày nay như taxol, quinine, artemisinin, vincristine, vinblastine, digoxin và codeine (Fabricant DS, Farnsworth NR, 2001)

Cây Càng cua có tên khoa học là Peperomia pellucida (L.) Kunth thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae) là một loài cây mọc hoang, thuộc nhóm rau ngắn ngày P. pellucida được sử dụng làm thuốc, thực phẩm và chất tạo hương ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới. Các bộ phận trên mặt đất như chồi non, lá và toàn cây được sử dụng dưới dạng thuốc sắc, dạng lỏng, dạng bột..v.v. để điều trị một số bệnh như sốt, cảm lạnh, ho, bệnh do virus, đau thấp khớp, hen suyễn, âm đạo nhiễm trùng và nhiễm trùng thận. Người Sumu (Ulwa) ở phía đông nam của quốc gia Nicaragua và người Miskitu ở phía nam nước này đã sử dụng P. pellucida để chống lại các vết cắn và vết đốt (rắn, bọ cạp và côn trùng), nhiễm trùng, bệnh hoa liễu và rối loạn hormon nữ (Coe and Anderson, 1999). Loại cây này vừa được sử dụng như thực phẩm vừa được xem là thuốc cho con người ở Luang Prabang, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (Whitney et al., 2014). Ở Lombok, Indonesia, cây được dùng để chữa bệnh sốt (Hadi S. and Bremner, 2001). Ở quận North-Kamrup, Assam, Ấn Độ, cây dùng để đắp ngoài da để giảm mụn và các đốm trắng trên cơ thể (Das, 2006). Tại nước Cộng hòa Trinidad và Tobago, cây được sử dụng như một loại thực phẩm giải nhiệt (Lans, 2006). Tại Nigeria, toàn bộ cây được sử dụng trong điều trị bệnh sởi (Sonibare et al., 2009), chữa bệnh trĩ, huyết áp cao, co giật và gãy xương (Chukwuma et al., 2015). Tương tự, tại vùng Rondonia, Tây Amazon thuộc Brazil, người ta dùng nước ép từ lá và rễ để chữa trị đau chân cho vận động viên, trị đau trĩ và viêm thận (Santos et al., 2014). Còn tại Mindanao thuộc Philippines, người ta đun sôi toàn bộ cây và sử dụng để điều trị bệnh viêm thận và hạ huyết áp (Olowa and Demayo, 2015). Nghiên cứu được thực hiện bởi Putri et al. (2016) tiết lộ tiềm năng của chiết xuất ethanol của cây Càng cua (100 mg/kg thể trọng) để ngăn ngừa loãng xương ở chuột bị loãng xương do buồng trứng gây ra (OVX). Ở nồng độ 100 mg/kg, những con chuột được điều trị bằng dịch chiết xuất đã cho thấy sự cải thiện về hình ảnh ba chiều của xương trabecular (xương xốp) so với nhóm đối chứng OVX. Nghiên cứu được thực hiện bởi Kanedi et al. (2017) cho thấy chiết xuất thô của P. pellucida ở dạng gel bôi tại chỗ có khả năng thúc đẩy sự phát triển lông ở thỏ với liều lượng khác nhau. Chiều dài trung bình của lông thỏ tăng khi tăng nồng độ chiết xuất trong gel.

Thành phần hóa học

Thành phần hóa học trong cây Càng cua gồm có alkaloids, flavonoids, phenolics, saponins, terpenoids, steroids và glycosids. Một số hợp chất đã được xác định trong cây Càng cua như dill-apiole, phytol, stigmasterol, sitosterol, secolignan, tetrahydrofuran, lignan, dihydronapthalenon methyoxyl hóa, peperomin, sesamin, và isoswertisin. Những nghiên cứu trước đây đã chứng minh cây Càng cua sở hữu rất nhiều tác dụng dược lý như khả năng kháng khuẩn, kháng nấm, chống oxy hóa, kháng viêm, hạ sốt, giảm đau, chống ung thư, hạ huyết áp, hạ đường huyết, hạ cholesterol, và làm lành xương (Narayanamoorthi et al., 2015; Raghvendra and Prashith Kekuda, 2018).

Egwuche et al. (2011) đã công bố thành phần dinh dưỡng trong lá cây Càng cua có chứa carbohydrate (38,97%), protein (7,68%), chất xơ thô (22,35%), chất béo (1,08%) và chứa một lượng đáng kể canxi, magie, kali và natri. Ngoài ra, một nghiên cứu được thực hiện bởi Ooi et al. (2012) cho thấy thành phần dinh dưỡng của cây Càng cua trồng tại Malaysia có chứa một lượng đáng kể carbohydrate (khoảng 45%) và protein (khoảng 10%) tuy nhiên hàm lượng lipid thấp (khoảng 3%). Loại cây này cũng được chứng minh là có lượng kali, canxi, sắt và natri đáng kể.

Bộ phận câyNhóm hoạt chấtTác giả
Toàn câyAlkaloids, flavonoids, glycosides, saponinsEgwuch  et al., 2011
Alkaloids, fla onoidsMajumder, 2011
Alkaloids, flvonoids, saponins, tannns, steroids, triterpenoidsMajumder và Kumar, 2011. Omotayo à Borokini, 2012
Alkaloids, tannins, saponins, terpenoids, flavonoids, cardiac glycosidesOjo et al, 2012
Alkaloids, tannins, flavonoids, saponins and cardiac glycosidesIbibia, 2012
Các bộ phân trên mặt đấtAlkaloids, flavonoid, tannins, s ponins, steroids, glycosidsGini và Jothi, 2013
Toàn câyTannins, saponins, flavonoids, terpenoids, phytosterols, alkaloids, phenolicsGini và Jothi,  2013 
ThânAlkaloids, tannins, flavo oids, steroids, triterpenoidsSheikh et al, 2013
Toàn câyAlkaloids, saponins, tannins, flavonoids, anthraquinones, glycosidesAbere và Okpalaonyagu, 2015
Alkaloids, tannins, saponinsRaina và Hassan, 2016
Alkaloid, cardiac glycoside, terpene, saponin, tanninIdris et al., 2016
Bảng 1: Các hoạt chất được tìm thấy trong cây Càng cua

Hoạt tính sinh học của cây Càng cua

Hoạt chất kháng khuẩn của cây Càng cua

Ragasa et al (1998) đã phân lập được dill-apiol và pachypophyllin từ lá chiết xuất của cây càng cua và xác định hoạt tính kháng khuẩn của chúng. Các hợp chất này có hiệu quả chọn lọc đối với Trichophyton mentagrophytes trong khi các vi khuẩn thử nghiệm khác không bị ảnh hưởng. Hoạt chất Patuloside A phân lập từ lá cây Càng cua được chứng minh là có tác dụng ức chế vi khuẩn Gram dương và Gram âm tùy thuộc vào nồng độ. Chất này cho thấy hoạt tính yếu đối với Aspergillus flavusCandida albicans trong khi A. nigerRhizopus oryzae không bị ảnh hưởng (Khan et al., 2010). Trong một nghiên cứu của Kalairasi (2016) cho rằng  dịch chiết ethanol từ cây Càng cua thể hiện hoạt tính kháng khuẩn mạnh nhất khi so sánh với các dịch chiết từ nước, petroleum ether, chloroform và aceton. Hoạt tính kháng khuẩn này được cho là có liên quan đến các hợp chất phenolic, alkaloid, và steroid. Nghiên cứu của Tablang et al. (2020) về hoạt tính hóa sinh học và kháng khuẩn của cây Càng cua đã cho thấy chiết xuất cây Càng cua bằng ethanol giúp chống lại các loài vi khuẩn Escherichia coliStaphylococcus aureus với đường kính vòng kháng khuẩn trung bình lần lượt là 15,43±0,67 mm và 13,22±0,34 mm. Một nghiên cứu khác của Aye and Khine (2020) cũng chứng minh được chiết xuất cây Càng cua bằng ethyl acetate thể hiện tính kháng khuẩn cao nhất đối với Escherichia coli với đường kính vòng kháng khuẩn là 20 mm, theo sau đó là Pseudomonas aeruginosa (18 mm) và Bacillus subtilis (13 mm). Với các chiết xuất cây Càng cua bằng các dung môi khác như ethanol, methanol, chloroform và nước thể hiện khả năng kháng khuẩn thấp hơn so với chiết xuất bằng ethyl acetate ở sáu loài vi khuẩn được nghiên cứu là Bacillus substilis, Staphylococcus aureus, Pseudomonas aeruginosa, Bacillus pumilus, Candida albicans và Escherichia coli. Cây Càng cua cũng được nghiên cứu là có công dụng chống lại vi khuẩn Propionibacterium acne (Kosasih et al., 2019). Bên cạnh đó, cây Càng cua còn có hoạt tính kháng nấm chống lại một số loài nấm gây bệnh trên người như Candida albicans, Penicillium notatum và nấm gây bệnh trên thực vật như Rhizopus stolonifer, Fusarium moniliforme, Aspergillus niger Aspergillus flavus (Alves et al., 2019). 

Hoạt tính chống oxy hóa của cây Càng cua

Mutee et al. (2010) đã xác định hoạt tính chống oxy hóa của dịch chiết methanol, chloroform, ether dầu hỏa của cây Càng cua bằng phương pháp 2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl (DPPH). Dịch chiết methanol được chứng minh là có khả năng loại trừ các gốc tự do rõ rệt khi so sánh với các dịch chiết khác. Năm 2011, Wei et al. đã sàng lọc dịch chiết methanol của lá cây Càng cua để xác định khả năng loại bỏ gốc tự do bằng phương pháp DPPH, qua đó cho thấy dịch chiết có khả năng loại bỏ các gốc tự do phụ thuộc vào nồng độ, tuy nhiên những hoạt tính này kém hơn với quercetin. Oloyede et al. (2011) đã xác định tiềm năng chống oxy hóa của chiết xuất methanol thô và các phân đoạn hexane, ethyl axetate, butanol và  nước từ lá cây Càng cua bằng phương pháp DPPH, hydro peroxit và feric thiocyanate. Các dịch chiết xuất được chứng minh là thể hiện hoạt tính rõ rệt trong tất cả các phương pháp. Một nghiên cứu khác được thực hiện bởi Beltran-Benjamin et al. (2013) cho thấy có sự gia tăng nồng độ của các enzyme chống oxy hóa như superoxide dismutase và catalase khi cho chuột uống dịch chiết xuất methanol thô của cây Càng cua. Nghiên cứu được thực hiện bởi Okoh et al. (2017) cũng cho thấy tiềm năng chống oxy hóa của tinh dầu lá và thân của cây Càng cua. Các loại tinh dầu thể hiện khả năng thu hồi phụ thuộc nồng độ của DPPH, 2,2′-azino-bis (3-ethylbenzothiazoline-6-sulphonic acid (ABTS) và các gốc oxit nitric).

Hình 1. Hoạt tính sinh học của cây Càng cua (nguồn: Alves, 2019)

Cao chiếtBộ phậnHoạt tínhkhángTham khảo
Cao methanolToàn câyBacillus subtilisCandida albicansWiart et al., 2004.
Cao nước và cao methanolVi khuẩn Gram âmAkinnibosun et al., 2008.
Cao methanolVi khuẩn Gram âm và Gram dươngWei et al., 2011.
Cao methanolVi khuẩn Gram âm và Gram dương; Nấm: Aspergillus, Rhizopus, Candida và PenicilliumOloyede et al., 2011
Cao với dung môiPseudomonas aeruginosa, Salmonella typhimurium và Shigella dysentesiae, Aspergillus nigerIbibia et al.,2012
Cao nước và dung môi hữu cơVi khuẩn Gram âm và Gram dươngOjo et al., 2012
Cao methanolVi khuẩn Gram âm và Gram dươngMensah et al., 2013
Tinh dầuFusarium moniliforme, Rhizopus stoloniferFranco s et al., 2013
Cao ethanolVi khuẩn Gram âm và Gram dươngIgwe and Mgbemena, 2014.
Cao methanolShigella dysenteriaeUddin et al., 2014
Bảng 2.Tiềm năng kháng khuẩn của cây Càng cua từ các dịch cao chiết

Hoạt tính ức chế enzyme liên quan bệnh tiểu đường

Một tiềm năng quan trọng không kém của cây Càng cua là điều trị bệnh tiểu đường và béo phì thông qua những hoạt chất có sẵn với khả năng ức chế enzyme α-amylase – một loại enzyme thủy phân tinh bột, glycogen và polysaccharides làm tăng hàm lượng đường trong máu. Olorunnisola et al. (2013) đã báo cáo rằng giá trị IC50 của chiết xuất thô cây Càng cua là 6950,0 µg/mL cao hơn so với đối chứng dương Acarbose (46,5 µg/mL) – một loại thuốc thương mại giúp chống tiểu đường phổ biến hiện nay nhờ khả năng ức chế hoạt động của α-amylase. IC50 là một đại lượng giúp xác định khả năng ức chế của mẫu, với giá trị IC50 càng thấp thì mẫu có hoạt tính càng cao và ngược lại. Do đó, chiết xuất thô cây Càng cua thể hiện khả năng ức chế α-amylase thấp nhiều so với Acarbose. Để đạt giá trị IC50 thấp hơn, cần tinh sạch chiết xuất cây Càng cua bằng nhiều công đoạn nhằm tối ưu hóa khả năng ức chế α-amylase có trong cây Càng cua.

 Hoạt động ức chế enzyme khác

Trong một nghiên cứu, Ong et al. đánh giá lipase tuyến tụy của lợn hoạt động ức chế của dịch chiết metanolic của lá cây Càng cua và khả năng gây ức chế hoạt động của lipase thấp hơn so với tiêu chuẩn. Kurniawan et al. đã phân lập một hợp chất có tên 3 ‘, 4’, dihydroxy-3-5-dimethoxy flavone-7-O-beta- rhamnose từ các bộ phận trên không của P. pellucida và đánh giá hoạt tính ức chế của nó đối với men chuyển Angiotensin (ACE). Hợp chất được tìm thấy để ức chế liều ACE phụ thuộc vào giá trị IC50 7,72 µg/mL. Phần ethyl axetate mạnh hơn phần hợp chất. Nghiên cứu được thực hiện bởi Parawansah et al. cho thấy tiềm năng của chiết xuất ethanol từ lá cây Càng cua để ức chế hoạt động của xanthine oxidase. Chiết xuất được chứng minh là có biểu hiện ức chế xanthine oxidase với giá trị IC50 là 19,5 ppm.

Tóm lại, từ các công trình nghiên cứu trên thế giới đã công bố về đặc tính kháng khuẩn, kháng nấm và chống oxy hóa của cây Càng cua (Peperomia pellucida) cho thấy việc xác định chủ yếu với bộ phận dùng là lá hoặc toàn thân với các dịch chiết thường được xác định có hoạt tính gồm methanol, ethanol, ethyl acetate và butanol. Trong đó có vài nghiên cứu phân lập được chất có hoạt tính kháng khuẩn, kháng nấm như Patuloside A, có hoạt tính kháng khuẩn như phytol; có hoạt tính chống oxy hóa như hexadecanoic acid, methyl ester và 9,12-octadecadienoic acid (Z,A)-, methyl ester. Dịch chiết ethanol cho thấy có khả năng kháng khuẩn, kháng nấm và chống oxy hóa.

Đăng ngày: 11/07/2023